Tô-pô của không gian mầm Thác_triển_giải_tích

Ta có thể định nghĩa một cấu trúc tô pô trên G {\displaystyle {\mathcal {G}}} . Đặt r > 0 và xét

U r ( g ) = { h ∈ G : g ≥ h , | g 0 − h 0 | < r } . {\displaystyle U_{r}(g)=\{h\in {\mathcal {G}}:g\geq h,|g_{0}-h_{0}|<r\}.}

Các tập hợp Ur(g), với r > 0 và g ∈ G {\displaystyle g\in {\mathcal {G}}} xác định một cơ sở của các tập mở cho một cấu trúc tô-pô trên G {\displaystyle {\mathcal {G}}} .

Một thành phần liên thông của G {\displaystyle {\mathcal {G}}} được gọi là một . Lưu ý rằng tồn tại các bản đồ ϕ g ( h ) = h 0 : U r ( g ) → C , {\displaystyle \phi _{g}(h)=h_{0}:U_{r}(g)\to \mathbb {C} ,} với r là bán kính hội tụ của g. Tập hợp các bản đồ như vậy tạo thành một at-lat cho G {\displaystyle {\mathcal {G}}} , vì thế G {\displaystyle {\mathcal {G}}} là một mặt Riemann. G {\displaystyle {\mathcal {G}}} đôi khi được gọi là hàm giải tích phổ quát. Một thành phần liên thông của nó cũng chính là không gian étalé của bó các hàm giải tích trên một miền của mặt phẳng phức.